Đóng góp ý kiến và báo lỗi phiên bản mới tại đây

public6 năm trước

"MBA Một Chặng Đường Dài" - Tổng Hợp Tất Cả Kinh Nghiệm Trong Quá Trình Apply MBA (Phần 1)

Mùa apply đi qua là lúc tôi lượn phố mua cho mình quần áo mới, mua vải may một bộ ra trải giường theo design riêng, đăng kí khóa học trang điểm, đăng kí leo Fanxipan, í ới tụ tập bạn bè… chính thức hưởng thụ cuộc sống một cách đàng hoàng và sung sướng… kiểu không cần biết đến time management là gì… Nghĩ lại chặng đường apply đã qua thật quá nhiều kỉ niệm. Tôi muốn chia sẻ lại với các bạn những cảm xúc và trải nghiệm thật nhất của chính tôi, với mong muốn là góp phần giúp cho con đường các bạn “đi sau” bớt gập ghềnh hơn. Khi bước vào con đường apply MBA, tôi bị lạc vào một biển thông tin mênh mông và lung túng không biết bắt đầu từ đâu và đi như thế nào để tiết kiệm thời gian. Với bài viết này, tôi hi vọng có thể giúp các bạn có một bức tranh tổng quát, có các nguồn thông tin, các kinh nghiệm từ sự va vấp và thu hoạch của tôi.

Bản thân tôi đã từng được đọc câu chuyện của những người khác và đã cảm thấy tự tin hơn rất nhiều. Nên tôi nghĩ câu chuyện của tôi sẽ giúp bạn phần nào. Tôi cũng đã từng nhận được những sự giúp đỡ to lớn từ những người khác mà nếu không có họ, tôi sẽ không bao giờ có được kết quả hôm nay. Bài viết này cũng là một cách để tôi tỏ lòng biết ơn đến những người đã nhiệt tình giúp đỡ tôi, đặc biệt là gia đình Vòng Tay Bè Bạn và hai big brother là anh Tiến và anh Tường. Tôi cũng muốn gửi lời cám ơn thật lòng đến US Guide và forum Vietmba vì mỗi bước tôi đi, tôi đều tìm được những thông tin cần thiết và kinh nghiệm chia sẻ. Triết lý của US Guide chính là cảm hứng mạnh mẽ cho tôi mong muốn được chia sẻ và giúp ích đối với các bạn khác.

Ghi chú tí tẹo: Với tôi, kết quả apply không phải là điểm kết thúc mà nó là điểm khởi đầu cho một chặng đường khác. Tôi không muốn gọi những gì có được tại thời điểm này là “thành công”, “fame” lại càng không dám, vì phía trước còn quá nhiều thách thức. Chỉ muốn kể cho bạn một câu chuyện mà thôi. Và đó là câu chuyện có đủ sắc màu vui buồn, có được và mất, có khôn ngoan và ngớ ngẩn, được viết từ góc nhìn của riêng tôi. Bên cạnh đó, những điều viết ra ở đây có thể còn nhiều thiếu sót hoặc chưa đầy đủ. Tôi rất mong các anh chị và các bạn khác góp ý để những kinh nghiệm này có thể hữu ích hơn.


i. Giới thiệu về bản thân
Gái. K40 khoa Kinh Tế Đối Ngoại, ĐH Ngoại Thương. GPA 8.37. Lớp trưởng. Thành viên và là Phó Chủ tịch phụ trách Hoạt động cộng đồng của tổ chức Tình nguyện trẻ Vòng Tay Bè Bạn. Tính đến thời điểm apply là có 3 năm kinh nghiệm. Quá trình công tác: Brand Service Manager của một công ty của VN về tư vấn thương hiệu, PR&Marketing Manager của một công ty chứng khoán (vị trí tại thời điểm apply). Điểm mạnh là tôi từng ở những vị trí có liên quan đến leadership/management và có đam mê + định hướng nghề nghiệp rõ ràng về marketing/branding. Điểm yếu là tôi chưa bao giờ làm cho công ty nước ngoài, tức là không có một cái corporate brandname “đáng kể” nào trong hồ sơ. Cũng như tính chất công việc của tôi khó đo đếm đánh giá bằng con số cụ thể. Nếu có con số, chẳng hạn như trị giá một hợp đồng tư vấn thương hiệu thì tôi cũng không dám kể ra vì sợ làm các bác adcom ngất xỉu… vì bé quá! Đây là một hạn chế lớn vì resume bao giờ cũng phải “result-oriented”.

Một đặc điểm về vụ apply của tôi là gần như cái gì cũng phải làm 2 lần. IELTS thi 2 lần (6.5 và 7.5). GMAT thi 2 lần (650+5 và 710+5.5). Apply cũng 2 mùa. Mùa đầu tiên là năm 2007 nộp mỗi Emory, bị ding. Mùa 2008 nộp 4 chú thì có Duke được 50% tuition (đã negotiate) và Minnesota được 100% tuition (chưa negotiate). Riêng TOEFL ôn phọt phẹt có vài tuần nên tôi chắc mẩm cũng thì 2 lần thì cuối cùng lại “bị” 106 ngay từ lần đầu tiên nên tặc lưỡi không thi lại nữa. (Mùa năm nay còn quả visa chưa biết cơ sự thế nào).

Tôi luôn tin rằng những gì tôi đạt được là có lý do của nó. Tôi không tin vào may mắn trời cho (hơi giống Mai An Tiêm ). Tôi chỉ tin vào những gì tôi sẽ đạt được từ nỗ lực của chính mình. May mắn, nếu có, đó là tôi được sinh là tôi, với tất cả những ưu nhược điểm của bản thân, và được có một gia đình và những người bạn tuyệt vời. 

ii. Những trạng thái tâm lý
Điều đầu tiên mà tôi muốn chia sẻ với bạn là tâm lý - một trong những yếu tố quan trọng nhất để giúp bạn đi đến đích. Suốt phần vừa qua của chặng đường MBA, tôi đã phải đối mặt với những trạng thái tâm lý đặc biệt và muốn chia sẻ với bạn, để nếu bạn có gặp tình huống như tôi thì cứ yên chí rằng bạn không phải là người duy nhất! 

Nước Mỹ quá xa xôi! 
Trước khi appy MBA ở Mỹ, tôi từng nộp hồ sơ một vài trường ở Anh và Úc với suy nghĩ “hiển nhiên” là đi Úc/Anh thì dễ hơn Mỹ. Với tôi, nước Mỹ quá xa xôi. Ngoài ra, tôi nghĩ mình muốn học chuyên sâu về marketing, chứ MBA chả để làm gì, trong khi bằng sau đại học ở Mỹ chủ yếu là MBA.

Có lần tôi vào web một số trường ở Mỹ đọc về marketing. Mặc dù là MBA nhưng độ chuyên sâu về marketing của chương trình đó còn hơn đứt mấy trường top top ở Anh/Úc. Tôi đọc mà trong lòng ngẩn ngơ “Eo ơi, sao mình không thể có cơ hội đến đây!?” Hồi đó tôi vẫn nghĩ rằng tôi không thể có cơ hội đến Mỹ. Xung quanh tôi bạn bè toàn đi Úc/Anh/Châu Âu… Có lần mẹ tôi cầm tờ báo đọc cho tôi nghe “Hà ơi, bài báo này nói là đi Mỹ không khó này”, tôi còn chẳng buồn đọc.

Nhận thức thay đổi hoàn toàn khi tôi đến Đại hội US Guide 07/2007. Có lẽ tôi là một trong những minh chứng rõ ràng nhất về tác động thay đổi nhận thức mà US Guide mang lại. Cuộc chiến apply bắt đầu từ đây. Cảm nhận đầu tiên của tôi là bị bơi trong biển thông tin vô tận và rối tung khi đặt chân vào các forum của Vietmba. Cảm nhận thứ hai: GMAT là “nhiệm vụ bất khả thi”. Tôi tự động viên mình “người ta làm được mình cũng làm được”.

Trong suốt quá trình apply, tôi vẫn thỉnh thoảng nhận được những lời nhận xét kiểu: “Đi Mỹ á? Sao không đi Anh hay Úc gì đó cho dễ?”. Một anh bạn tôi, người mà tôi rất nể trọng, thì thành thật bảo tôi là “Cái bọn US Guide anh lạ gì chúng nó. Em đếm xem bao nhiêu đứa đã đi được? Em apply Mỹ làm cái quái g셔. Hix, tôi gân cổ lên cãi nhưng mà trong lòng cũng suy nghĩ lắm. May mà, trước đó tôi đã apply ở Anh và Úc nên đã biết mùi: admission thì rất dễ dàng, nhưng học bổng thì không dễ như tôi tưởng, có thì cũng rất hẻo (nói cho công bằng thì một phần là hồi đó tôi ít kinh nghiệm hơn, hồ sơ cũng kiểu cây nhà lá vườn, chả tham khảo nghiên cứu gì). Quan trọng là khi tìm hiểu về Mỹ rồi thì tôi thực sự thích, nhất là khi tôi học về marketing và muốn phát triển các kỹ năng quản lý (tôi nhận ra management cũng là cái tôi cần, không chỉ marketing). 

Vậy là: Quyết tâm đi Mỹ!!

GMAT bất khả thi 
Tôi nhớ một buổi sáng Chủ nhật tháng 7, ngày đầu tiên làm bài reading GMAT (quyển Princeton) tôi muốn nổ đom đóm mắt vì từ mới điên cuồng, bài đọc làm trong 10 phút thì tôi làm trong một tiếng mà vẫn sai lên sai xuống. Tôi cực kì thắc mắc là làm thế quái nào cái bài này giải quyết trong 10 phút được! Vô lý! Không thể! Kinh khủng!!

Học GMAT là một giai đoạn đáng nhớ. Lần đầu tiên tôi cảm thấy mình cần phải học tập một cách có kế hoạch, có kỷ luật và nghiêm túc thực sự. Đầu tiên là khó khăn khi ngồi vào bàn học mỗi buổi tối. Điều này không dễ với tôi vì suốt một thời gian dài đi làm về là chỉ có ăn uống, làm việc nhà, xem tivi hoặc chơi bời và ngủ. Riêng khoản “rửa bát” với tôi đã mất quá nhiều thời gian mà chẳng biết làm thế nào khác!! Nghe thì củ chuối nhưng đấy là thực tế. Những ngày đầu ngồi dưới ánh đèn được 15 phút là ngáp ngắn ngáp dài. Học được nửa tiếng là phải đi nạp năng lượng để chống buồn ngủ. Hồi học GMAT cũng là thời kì công việc của công ty tôi bận nhất. Lúc đó chứng khoán lên ầm ầm, công ty tôi tổ chức lễ khai trương, một trong những lễ khai trương nghe dân tình đồn là hoành tráng nhất Hà Nội lúc đó. Lần đầu tiên trong đời đi làm event, gặp ngay quả event lớn, tôi ngày nào phải làm việc muộn, chịu sức ép rất lớn vì việc tổ chức event luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Suốt hơn 1 tháng liên tục như vậy, về đến nhà là mệt phờ. Ngồi vào bàn học càng khó hơn. Nhất là khi lại có lý do quá chính đáng để bao biện cho thói lười cố hữu của mình! Thứ hai là sức ép của deadline. Tôi bắt đầu dòm ngó GMAT từ giữa tháng 7 (sau Đại hội US Guide), học tử tế bắt đầu từ tháng 8 (sau một trận du hí đã đời để yên tâm từ giã thời son rỗi). Âm mưu đặt lịch thi là tháng 10. Lên list những sách cần phải giải quyết trước ngày thi. Nhóm học GMAT 3 đứa của tôi tham vọng tới mức định giải quyết một đống sách trong có mấy tuần. Vd: OG trong 1 tuần, ha ha ha… đúng là điếc không sợ súng. Càng học thì càng thấy kế hoạch mà chúng tôi đặt ra là “bất khả thi”. Chúng tôi học nhóm ở quán cà phê được 3 buổi thì tan rã vì mỗi đứa có một tiến độ và việc riêng khác nhau. Trong 3 buổi đó chúng tôi dành đến 40% thời gian ngồi than thở với nhau là GMAT khó quá. Con số 700 sao mà xa vời!

Nhưng cuối cùng, chỉ sau một tháng, tôi đã tạo cho mình một thói quen ngồi vào bàn học mỗi tối mà không còn ngáp ngủ, hầu như tối nào cũng học tập trung được khoảng 2 tiếng. Sau sáu tháng luyện chưởng, đến ngày thi, lúc nhìn con số 710 thậm chí còn thấy thất vọng vì đã nghĩ mình có thể được cao hơn! Thi xong GMAT tôi vẫn giữ thói quen ngồi vào bàn làm việc mỗi buổi tối. Trình độ tiếng Anh thì lên hẳn vài bậc. Đấy thực sự làm những thay đổi lớn.

Thất bại và mất mát 
Năm 2007 tôi chỉ nộp một trường là Emory. Lúc đó tôi cảm thấy mình chưa sẵn sàng lắm cho chuyện nộp hồ sơ, phần vì GMAT chưa đâu vào đâu, phần vì kinh nghiệm đi làm còn ít, phần vì chân ướt chân ráo bước vào cuộc chiến, chưa có nhiều thông tin… Được sự động viên của anh Tiến, tôi quyết tâm nộp. Hồ sơ thì thấy hài lòng, nhưng phần interview thì tôi cảm thấy không ổn. Tháng 3/2007, giữa lúc đang một mình ở Sài Gòn trong một chuyến công tác đầy khó khăn, tôi nhận được email thông báo trượt của Emory. Trượt thẳng cẳng. Không waitlist. Không một tia hi vọng. Lúc đó tôi rất buồn. Cánh cửa MBA dường như khép lại. Con đường phía trước bỗng trở nên xa tít tắp. Khủng hoảng tài chính bắt đầu nhuốm màu lên cuộc sống của tôi. Lang thang một mình trên vỉa hè quận I, một bên là những tòa nhà tráng lệ, những poster hàng hiệu hào nhoáng với những người mẫu môi hồng mắt tím sang trọng, một bên là những người lao động ngồi bệt trên vỉa hè, trong bộ quần áo nhàu nhĩ, tay cầm bữa trưa đựng trong một chiếc hộp nhựa rẻ tiền hoặc một chiếc túi nilon nhăn nhúm.. tôi thấy mình sao mà bé nhỏ giữa thế giới này... Lúc đó là cách thời điểm bây giờ tròn một năm. Một năm đó đi qua, ở Việt Nam, tôi làm được rất nhiều việc và trưởng thành lên rất nhiều. Mùa apply 2008 tôi thấy mình khác xa với cô bé ngây thơ của 2007. Tôi có nhiều thông tin hơn, dày dạn hơn, tự tin hơn và bình thản trước các tình huống. Tôi biết ơn anh Tiến vì đã khuyên tôi apply năm 2007. Nếu không có lần nộp Emory đó, tôi đã không thể có sự vững vàng như tôi đã có trong mùa apply năm nay. Nếu giả sử được đi năm ngoái, tôi đã không thể có một năm tuổi trẻ đầy ắp như thế! Một năm qua tôi có thêm bao nhiêu bạn bè, có thêm những khám phá mới về bản thân, vững vàng và được yêu thương… Đúng là “tái ông thất m㔅

***

Ngày nhận kết quả của Duke qua mail, FedEx chuyển cho tôi một cái hộp giấy rất đẹp, trong đó có thư admission, quà tặng (một cái hộp đựng namecard đẹp lung linh), CD, các tài liệu khác… Nhận buổi chiều thì buổi tối trên đường về nhà tôi làm mất luôn cái hộp! Hix hix, rơi đâu không biết nhưng tóm lại là đi tìm khắp mà không tìm được. Lần đầu tiên tôi làm mất một món đồ “quan trọng”. Tối hôm đấy tôi thấy buồn và tự trách mình vô ý. Nếu trường biết tôi làm mất thì họ sẽ khó mà cho một đứa đoảng như tôi (thêm) tiền và thậm chí có thể họ còn nghi ngờ. Mà không thể không nói cho họ biết vì mấy cái form mà tôi phải điền để gửi lại thì không có trên mạng để gửi online. Tôi vẫn hi vọng sẽ có người nhặt được và gọi điện trả, vì trên bìa FedEx có số mobile của tôi. Nhưng không ai gọi cả. Ông bạn người Bỉ của tôi bảo là: “Mày ở Việt Nam, và trường sẽ không tin mày làm mất cái hộp đâu! Mày phải đợi đến lúc có thông tin học bổng rồi mới nên nói”. Hơi buồn, nhưng đấy là điều mà người bạn Tây này thành thật chia sẻ với tôi.

Ngày hôm sau đến văn phòng, mở email ra thấy ngay một email của Duke tiêu đề là “Admit Package Delivery” trong đó ghi là: “bọn tao xin lỗi đã gửi nhầm hộp cho mày, mày xem giúp tao tên của ai trong cái hộp đó, bọn tao đang gửi cái hộp đúng cho mày, FedEx sẽ đưa đến mày trong vài ngày tới và lúc nhận cái hộp mới thì trả cho tao cái hộp cũ…” Ặc ặc. Tôi không muốn nói ngay với trường vụ mất cái hộp, vì quyết định học bổng tôi chưa có trong tay. Vụ mất cái hộp có thể làm tôi mất học bổng. Tôi tìm cách hoãn binh vài ngày nhưng hộp mới vẫn không đến và hộp cũ thì bặt vô âm tín. Tôi chẳng biết phải quyết định thế nào. Cuối cùng, quyết định là nói thật, dù không biết học bổng sẽ ra sao. Trường tỏ ra rất thông cảm. Vài ngày sau cái hộp mới đến, trong đó có thư học bổng 25% tuition. Hóa ra cái hộp cũ thiếu thư học bổng, chứ không phải nhầm tên. Mãi về sau tôi mới xin thêm tiền, và thật bất ngờ là Duke cho tôi lên gấp đôi, thành 50% tuition. 

Tối hôm bị mất cái hộp, tôi email kể lể với một người bạn. Anh viết lại cho tôi là: “All loss is a doorway. All pain is an entrance. All suffering is a gate. Anh đã từng mất những thứ “quan trọng” như là: chiếc xe đạp duy nhất của gia đình, Nhà nước lấy mất nhà, số tiền để đi chợ trong cả tuần cho cả nhà, bộ sưu tập tem trong nhiều năm, cháy nhà, album gia đình và tuổi thơ, lòng tin của một người bạn thân, niềm kính trọng về một người thầy, người anh sinh đôi, người cha, không được đi học đại học, đất nước mà anh sinh ra và lớn lên… Bây giờ, anh đã tìm lại được những sự mất mát đó. Và anh nhận ra một sự thật là không có gì “quan trọng” trong đời sống này cả. Hãy thả mọi thứ buồn phiền xuống cho nó trôi đi…”

Chuyện cái hộp đã đi qua. Nó ngày càng nhỏ bé trong kí ức của tôi. Nhưng bài học của nó vẫn luôn ở lại. All lost is a doorway…

Eight days a week 
Đây không phải eight days để yêu thương như một bài hát của the Beatles mà là eight days a week để cày như trâu trong một thời gian dài. Vụ apply năm 2007 vướng thi GMAT và trùng với lịch làm việc dày đặc của công ty trong mùa chứng khoán hưng thịnh nên phải cày đã là một nhẽ. Vụ apply năm nay thị trường chứng khoán đi xuống, ngân sách PR bị cắt giảm, tôi lẽ ra là nhàn tênh, thì lại “nhàn cư vi bất thiện”, đâm ra còn bận hơn cả thời kì trước. Kết thúc mùa apply 2007, tôi lao vào một dự án cộng đồng lớn là Hội Họa Kết Nối (Circle Painting) với tổng cộng 140 tình nguyện viên và hơn 1000 người tham gia, khối lượng công việc khổng lồ. Đâm lao phải theo lao. Trong suốt tháng 6 và tháng 7, hầu như ngày nào cũng làm việc khoảng 15 tiếng cho Hội Họa Kết Nối. Âm mưu “đi trước đón đầu” cho mùa apply 2008 tan thành mây khói. Hết Circle Painting tôi lại lon ton nhảy vào một dự án của Boston Consulting Group làm trong gần 3 tuần vì “không thể không xem nó thế nào”, trong khi vẫn phải hoàn thành công việc ở công ty hiện tại (hai nơi làm việc lệch giờ nhau, một nơi 7h30, một nơi 9h, nên tôi vẫn chạy được cả 2 nơi mỗi ngày!). Hết tháng 8, nghỉ dự án thì quay sang thi TOEFL và lập công ty riêng về online marketing theo lời rủ rê của một người bạn. Tháng 9 thi TOEFL xong thì bắt đầu làm hồ sơ phát đầu tiên là Duke vào tháng 10. Nghĩa là lúc đó tôi vừa lo apply, vừa lo trăm thứ việc với công ty mới thành lập, vừa vẫn làm fulltime với công ty chứng khoán, và thỉnh thoảng vẫn phải ngó nghiêng việc của Vòng Tay Bè Bạn! Ah, đợt đó tôi còn đi dạy lớp IELTS 2 buổi/tuần nữa chứ! Bó chiếu. Lúc này công ty chứng khoán của tôi lại liên tục làm lễ khai trương sàn vàng ở các đại lý (tránh vỏ dưa thì gặp vỏ dừa, chứng khoán xuống thì vàng lại lên!). Tôi nhớ một ngày giữa tháng 10/2008 tôi đi công tác Biên Hòa để tổ chức một cái lễ khai trương. 6h dậy tập thể dục, ăn sáng, trang điểm, mặc áo dài để phi đến sàn lúc 7h. 8h bắt đầu lễ khai trương. 9h phi về khách sạn để check out. 9h30 bắt xe về Sài Gòn phi thẳng đến văn phòng một khách hàng về thiết bị viễn thông ở Huỳnh Văn Bánh. Đây là khách hàng của công ty online marketing riêng của chúng tôi. Do công ty ở HN nên tranh thủ dịp này vào SG thì gặp gỡ một loạt các khách hàng SG luôn. 10h30 thuyết trình đến 11h30. 12h ăn trưa với một khách hàng về dịch vụ chuyển nhà. 14h30 phi đến một khách hàng là trung tâm tiếng Anh. Xong lại đến gặp một khách hàng sản xuất ga gối đệm ở đường Kinh Dương Vương lúc 16h30, tít tuốt đầu bên kia của SG. Xe ôm lao vun vút mất 40 phút mới tới. 18h30 lại gặp một khách hàng nữa ở đường Cù Lao ở một nẻo xa xôi nào đó. 20h về lại quận 1 gặp khách hàng làm về tinh dầu thiên nhiên. Lúc này bụng đói điên cuồng nên hình như tôi phải gọi một cốc cacao nóng để khỏi tụt huyết áp. Khách hàng hỏi “Em ăn tối chưa?” thì đành phải cười tươi như hoa bảo là “Em ăn rồi!” 22h về khách sạn mệt rã rời. Được cái 6 khách hàng của tôi đều rất nice, chắc tại thương tôi “thân gái dặm trường” , nên tôi cũng không cảm thấy áp lực gì (hiện tại chúng tôi có 3 hợp đồng từ 6 cuộc gặp đó!!). Về khách sạn đầu tiên là phải tẩy trang cái mặt son phấn từ sáng xong rồi lôi mì tôm ra ăn. Một trong những điều tôi thích nhất ở cái khách sạn một sao này là nó lúc nào cũng có mì tôm cốc ở trong phòng! Mặc dù ít khi ăn nhưng có những lúc thực sự cần đến. Ăn xong, 22h30 mở máy tính ra ngồi viết essay. Lúc đó là còn khoảng 1 tuần 10 ngày nữa là đến deadline của Duke, vậy mà cái essay 4 vẫn ì ạch. Các essay kia thì đang bị anh Tường chê tơi bời. Tôi định không nộp round 1 nữa. Lúc đó tôi thực sự bối rối. Gọi điện cho Nhung béo, nó động viên tôi nộp round 1 vì round 2 cạnh tranh kinh lắm. Ông bạn người Bỉ của tôi thì kêu là: “mày để round 2 hồ sơ mày chả tốt hơn bao nhiêu trong khi lợi thế của mày giảm hẳn”. Thế là liều! Và bạn có tin được không, tôi được 50% tuition của Duke! Riêng vụ này phải cám ơn Nhung béo lắm lắm. Nó cũng nộp round 1 như tôi, vậy mà vẫn động viên tôi nộp. Nếu tôi để đến round 2 thì khó lòng mà được như thế.

Có thể bạn đang nghĩ là tôi không biết set priority hoặc quá tham lam. Cũng có thể. Nhưng tôi không hối hận vì những gì mình đã làm. Với tôi, đơn giản là cơ hội đến mà nó quá hấp dẫn và không quay trở lại thì tôi không muốn bỏ qua. Và chừng nào cảm thấy còn cố được thì tôi sẽ cố. Vì tôi tin rằng khi quen với “cường độ lao động” đó, tôi có thể lên “cường độ cao hơn” mà không gặp khó khăn! Thực ra tôi không hề có ý nói là tôi đã làm đúng đâu! Nếu được khuyên thì tôi sẽ khuyên bạn không nên tham việc một cách ngông cuồng như tôi. Anh Tường có viết cho tôi một câu mà tôi luôn nhớ trong đầu là “Em làm application cẩn thận và có scholarship/FA là em kiếm được nhiều tiền hơn em đi làm trong một năm đấy”. Với câu nói này của anh thì tôi đã mạnh tay hơn trong việc set priority và gạt đi không ít vụ hấp dẫn khác. 

Nhiều lúc nhìn lại, một năm 2008 thật là khủng khiếp. Chỉ trừ đợt đi chơi Hà Giang ngoạn mục vào dịp 30/4 thì cả năm gần như tôi chẳng có khoảnh khắc vui chơi tự do nào. Có đi chơi tôi cũng không được hưởng trọn vẹn cảm giác thoải mái vì trong đầu đã được lập trình về time management và các deadline. Chưa bao giờ tôi có một năm quần quật như năm 2008. Hội du lịch chán quá bỏ tôi ra khỏi mailing list. Bạn bè thì than phiền rồi không thèm rủ tôi đi chơi nữa. Tóc bị dài và duỗi mà tôi cũng không có thời gian đi làm lại. Nhiều lúc nhìn vào gương ngậm ngùi tự hỏi mình mất đi cái vẻ hồn nhiên từ bao giờ, và để được cái gì cơ chứ?! 

Nhưng, bạn biết không, một mặt khác, sự bận rộn đó lại đem đến những màu sắc phong phú cho cuộc sống của tôi cũng như cho chính application của tôi. Càng va chạm, càng thách thức bản thân, tôi càng có nhiều chất liệu trong application. Nếu tôi không lao động cật lực như thế, tôi đã không thể có những câu chuyện đầy màu sắc trong essay và interview. Hơn nữa, tôi càng tự tin khi đối mặt với mọi tình huống, trong cũng như ngoài chuyện apply. Nhưng biết đâu, nếu, vâng, nếu. Nếu tôi không lao đầu điên cuồng như thế, biết đâu tôi lại có thời gian chuẩn bị tốt hơn và được một miếng bánh to/ngon hơn… Tóm lại, điều mà tôi muốn nói với bạn là, application chỉ là một phần của cuộc sống, và nếu bạn đã rất bận rộn thì bạn vẫn có thể làm được nhiều hơn. Tuy nhiên, biết set priority là một kỹ năng rất quan trọng để đạt được các đích cuối cùng. Và chỉ có bạn mới tự tìm được điểm cân bằng hợp lý cho chính mình. 

Một điều nữa muốn chia sẻ là tôi luôn cố gắng duy trì thói quen tập thể dục buổi sáng và đi nhảy vào cuối tuần, dù là rất bận. Thậm chí càng bận tôi lại càng phải tập. Thể thao giúp tôi thăng bằng tốt hơn và có nhiều năng lượng hơn để chiến đấu. Và rất hạn chế thức khuya (ngoài chuyện buồn ngủ ra thì thức khuya tổn hại nhan sắc và sức khỏe lắm lắm :p)

Khi nào lấy chồng? (mục này chỉ dành cho các bạn gái nhé) 
“Ơ thế không định lấy chồng à?” – Hix, câu này tôi nghe mòn hết cả vành tai lẫn màng nhĩ mà vẫn không thoát được mỗi khi ai đó biết tôi có ý định đi học tiếp. Khổ cái là không khai không được, vì bạn bè người quen toàn hỏi tôi là “Sao dạo này bận gì thế?” “Sao không đến sinh nhật tớ/con tớ?” “Sao không đi chơi với lớp mình?” “Sao 20/11 không qua thăm cô giáo?”, “VIP quá, hẹn mãi mà không gặp được Hà” – Đành phải thành thật nói là mình đang ôn thi, hòng mong người ta thông cảm, châm chước cho sự thiếu quan tâm/bận rộn của mình. Mà nói ôn thi thì người ta sẽ hỏi bạn là thi cái gì! Blah blah… Và cuối cùng là “Thế không định lấy chồng à!” ặc ặc… 

Bực nhất là dịp Tết, cứ đến nhà là người ta hỏi “Thế bao giờ cho cô/dì/chú/bác/anh/chị ăn cỗ?”. Một người hỏi không sao, hai người hỏi càng vui, 10 người hỏi cũng “no” vấn đề. Nhưng người thứ 20, 30, người thứ 100 hỏi thì bạn sẽ muốn gào vào mặt người ta là “Tôi mệt vì phải vừa cười vừa trả lời lắm rồi!” hoặc bạn sẽ thèm được làm tờ “FAQ” để phát cho người ta đọc cho xong chuyện.

Nhục nữa là về quê. 10 người tôi gặp thì 10 người sẽ hỏi tôi “câu hỏi thường gặp” này. Mà nào có phải 10 người đó quan tâm gì đến tôi đâu! Tất nhiên là tôi vẫn phải cười tươi và bảo là “Ôi, ăn cỗ thì có gì khó đâu ạ. Cháu mời cô/dì/chú/bác/thím/anh/chị… lúc nào chả được”. Nhưng chưa xong, người ta còn nhiệt tình hơn, tiếp tục bảo tôi là “Con gái có thì cháu/em ạ, kén nó vừa thôi”. Tuổi tôi ở quê thì được liệt vào dạng “báo động” . Hu hu hu… tôi đâu có cần người ta khuyên cơ chứ. Có phải tôi không “nhận thức được vấn đề” đâu!

Nhưng mà “cú” nhất là người ta không những “khuyên” tôi mà còn quay sang nói với bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi được tôi “quán triệt tư tưởng” từ rất sớm rồi nên lập trường khá vững vàng trước “dư luận xã hội”. Nhưng than ôi! “Nước chảy đá mòn”. Thỉnh thoảng bố tôi nói gần nói xa “Cái gì cũng có quy luật của nó” là tôi biết ngay ám chỉ điều gì. Tôi biết thế nên thường xuyên tung hỏa mù với bố mẹ. Được cái tôi “quan hệ rộng”, bạn bè đồng nghiệp đối tác người quen nhiều vô biên nên bố mẹ tôi cũng đỡ lo. Hoặc lo nhưng không dám nói cho tôi biết, vì biết tính tôi rồi. Thực sự tôi thấy may mắn vì bố mẹ tôi hiểu và tôn trọng cá tính của tôi. Từ nhỏ, tôi lớn lên độc lập và tự quyết định mọi bước đi trong cuộc đời mình. Tôi luôn ý thức về bản thân và không uốn mình theo những định kiến xã hội (không biết thế là tốt hay xấu, nhưng đấy là tôi!).

Tại sao tôi lại kể với bạn điều này? Vì nếu bạn là con gái, tôi dám cá bạn sẽ đối mặt với tình huống tương tự nếu đi học MBA trước khi lấy chồng. Quả thật không dễ dàng khi nhìn tới tương lai xa tít tắp phía trước, sau 2 năm MBA… Nhưng bạn ơi, rốt cục đời là một cuộc phiêu lưu… Có ai biết trước điều gì đâu! Với cá tính ưa “nổi loạn” của mình thì có cố thủ ở Hà Nội cũng chắc gì tôi đã lấy được chồng!  Tôi sống cho hiện tại. Cái gì tôi thích thì tôi làm. Nếu bảo bây giờ tôi từ bỏ ước mơ MBA để ngồi đợi kiếm một anh, làm đám cưới ầm ĩ, rồi lo chợ búa bếp núc chăm chồng nuôi con thì tôi thiếu oxy mà héo hon mất. Tôi là tôi, nên đừng bắt tôi phải sống theo cách của người khác.

Vậy thì, đi thôi!!


1. SELF – ASSESSMENT 

Một trong những việc đầu tiên bạn cần làm của quá trình apply MBA là self-assessment. Tôi nhớ trong quyển How to get into top MBA programs (Bạn có thể tìm các sách được nhắc đến trong bài này ở Thư viện US Guide) có một mục về phần này, trong đó có rất nhiều câu hỏi như về Education, Work experience, Extracurriculum Activities, Future plan, Personal questions…Ngoài ra, bạn có thể bổ sung những nội dung khác theo trường hợp cụ thể của bạn và tham khảo thêm trên forum vietmba.com. 

Mục đích là self-assessment là để bạn có một bức tranh toàn diện, chi tiết và đầy đủ về bản thân. Nội dung của self-assessment đóng vai trò nền tảng cho toàn bộ các công việc trong quá trình apply của bạn, từ CV, essay cho đến interview. Trong self-assessment, bạn cần phải đưa ra những tiêu chí để thể hiện mình, tương tự như key communication messages để xây dựng hình ảnh thương hiệu. Ví dụ cho trường hợp của tôi: 

Self positioning: “INNOVATIVE LEADER”
Communication Guidelines:
1. Leadership 
2. Creativity 
3. Passion for brand management/marketing 
4. Contribution to community 
5. Strong interest in [school name]
Bạn không nên đưa quá nhiều thông điệp vì trí nhớ con người có hạn (Jack Trout). Các guideline này cũng có thể được thay đổi một chút để phù hợp với văn hóa của từng trường nếu cần. Từ cái xương sống đó, bạn sẽ dựng tiếp các câu chuyện, các sự kiện theo khung câu hỏi sẵn có của self-assessment. Như thế, các câu chuyện sẽ thống nhất với một chủ đề chung, chính là hình ảnh một con người mà bạn muốn admission committee cảm nhận. Và về sau khi bạn viết essay hay trả lời interview, bạn cũng sẽ theo cái mạch đã thống nhất đó. Giả sử bạn nào có định nói dối, ví dụ như bạn không thực sự thích tha thiết một ngành nào nhưng buộc phải chọn một ngành thì self-assessment cũng sẽ giúp bạn “nói dối” một cách nhất quán!

Bạn có thể tự hỏi làm thế nào để ra được các tiêu chí này? Xin thưa, không dễ. Đó là một quá trình viết rồi sửa, sửa rồi viết… Những câu chuyện về bạn hoàn toàn có thể lại dẫn đến một thông điệp khác chứ không phải thông điệp mà bạn dự định ban đầu trong guideline. Không sao cả, mình bỏ tiêu chí đó đi và thay bằng tiêu chí mới phù hợp hơn. Làm self-assessment cũng chính là một quá trình quan sát và khám phá về bản thân. Bản thân tôi cũng như một số bạn bè, khi làm xong self-assessment thì cảm thấy sung sướng vì nhận ra giờ đây “mình hiểu mình quá”. Mình biết mình là ai, giá trị của mình ở đâu, mình muốn làm gì... Bạn cũng sẽ tự đánh giá được là mình có thực sự muốn đi học MBA hay không, để mà quyết tâm theo đuổi. Vì thế, quá trình viết self-assessment là một quá trình lâu dài, không chỉ chuyện viết và sửa mà nó là chuyện quan sát bản thân và ghi chép lại. Thế nên bạn cần chuẩn bị việc này thật sớm. Như thế bạn cũng có thời gian để “ngấm” những gì mình viết ra. 

Về self-assessment thì tôi phải vô cùng cám ơn anh Tiến. Anh là người đầu tiên nói với tôi về self-assessment, đã xem, sửa, và hướng dẫn tôi từ những bước đi bỡ ngỡ đầu tiên đó. Anh cho tôi niềm tin rằng con đường nghề nghiệp mà tôi đang đi là đúng đắn. Điều đó giúp tôi tự tin lên rất nhiều, không chỉ trong chuyện apply mà trong cả công việc. Mặc dù bận rộn, anh vẫn dành thời gian cho một đứa “lính mới tò te” như tôi. Nếu anh có nói là “anh chỉ sửa giúp em bản final thôi” thì tôi cũng không dám than thở. Nhưng anh đã nhiệt tình sửa cho tôi từ cái self-assessment đến mấy cái draft essay dài lê thê còn lấm tấm lỗi chính tả (vì tôi không kịp sửa) mà không một lời phàn nàn. Tôi đã nhận của anh sự giúp đỡ lớn lao không điều kiện. Điều đó khiến tôi tự nhủ mình phải sống tốt hơn, phải giúp đỡ được nhiều người hơn. Pay it forward. 

------------
Phần bổ sung (02/09/2010)
1. Tiếp cận self-assessment như thế nào: Self-assessment giống như một bức ghép hình, trong đó mỗi miếng ghép là một phần của con người bạn. Ở đây có mấy điểm cần lưu ý:

- Bức tranh đó là tổng quan hình ảnh của bạn, là cái mà bạn muốn admission cảm nhận về bạn. Bức tranh đó là nền tảng cho sự nhất quán của toàn bộ hồ sơ (essay, interview, resume...). Bức tranh đó "phải" có những phần như: why MBA, why now, why you, short-term/long-term goals (&why), các success stories về leadership, initiative, team player, communications, aspiration và một loạt các nội dung khác như challenge/failure, ethics, personality, weaknesses... Self-positioning đóng vai trò như "chủ đề" của bức tranh, các stories kia là màu sắc, hoa lá tạo nên bức tranh theo chủ đề đó.

- Việc lựa chọn miếng ghép nào để đưa vào tranh là quyết định của bạn và do đó, nó phản ánh "thế giới quan" của bạn. Việc lựa chọn và kể một câu chuyện trong self-assessment không chỉ quan trọng ở cách kể, mà quan trọng hơn, là câu chuyện mà BẠN LỰA CHỌN để kể. Nó thể hiện bạn coi trọng cái gì, bạn quan tâm đến cái gì... (what matters to you), thì cái đó sẽ được thể hiện ra qua miếng ghép mà bạn chọn. Có những người cùng trải qua 1 sự kiện như nhau, nhưng có người lựa chọn để kể câu chuyện đó, có người lại không, vì hai người có thế giới quan khác nhau, coi trọng những thứ khác nhau.

- Nếu bạn coi mỗi strength (or key communication message) của bạn là một màu sắc thì bức tranh này không nên có quá nhiều màu sắc. Vì nhiều màu quá thì nhìn vào sẽ hoa mắt, rốt cuộc không thấy màu nào nổi bật cả. Do đó phải chọn "tông màu chủ đạo", và chuẩn bị các "miếng ghép" để làm tông màu đó nổi bật lên. 

2. Không nên nghĩ là đọc xong Quyển "How to get to top MBA" thì chắc chắn làm được Self-assessment ngon lành. Thế thì dễ quá!. Bản thân tớ dùng quyển này như bước khởi đầu để có bức tranh tổng quát về apply MBA, và để lấy câu hỏi gợi ý cho Self-assessment. Minh Hà luôn nghĩ rằng không có một công thức nào đúng cho tất cả mọi người. Những gì viết ra ở đây chỉ là trải nghiệm của bản thân tớ, kiểu như 1 case study, và bạn cần chọn lọc cái gì phù hợp với bạn để áp dụng.

Hope it helps.
----------------


(Còn nữa ... Phần 2)

Tác giả: Minh Hà - Việt MBA

----------------------------

Hợp Tác Cùng YBOX.VN Truyền Thông Miễn Phí - Trả Phí Theo Yêu Cầu tại http://bit.ly/YBOX-Partnership

1,641 lượt xem